Tuesday, November 1, 2011

Ba “điểm nóng” trong nợ nước ngoài của Việt Nam…!

(Tamnhin.net) - Việt Nam đã có một số dấu hiệu cho thấy “độ nóng” của Nợ nước ngoài trong thời gian gần đây đã tăng nhanh, cả về định tính và định lượng; nói cách khác, gánh nặng nợ nước ngoài đang tăng liên tục cả về quy mô nợ, dịch vụ nợ và điều kiện nợ. Ngoài ra, vấn đề hiệu quả quản lý, sử dụng nợ cũng chưa có sự cải thiện rõ rệt…; cụ thể , đang nổi lên 3 điểm nóng sau đây:

Thứ nhất, quy mô nợ tăng nhanh và vượt dự báo

Theo Bản tin nợ nước ngoài -Bộ Tài chính, đến 31/12/2009, tổng nợ nước ngoài gồm nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ do Chính phủ bảo lãnh là 27,929 tỷ USD, tương đương với khoảng 479,5 nghìn tỷ đồng; Trong đó, nợ nước ngoài của Chính phủ là trên 23,9 tỷ USD.

Đến cuối 2010, Nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ do Chính phủ bảo lãnh đạt 32,5 tỷ USD (trong đó tổng dư nợ nước ngoài của Chính phủ là 27,86 tỷ USD, tức chiếm 85,7% tổng dư nợ), tương đương 42,2% GDP năm 2010 và tăng 4,6 tỷ USD so năm 2009, đạt mức nợ cao nhất kể từ năm 2005. Cần lưu ý là con số 42,2% GDP cũng cao hơn nhiều so với mức 38,8% mà Chính phủ dự kiến hồi cuối năm 2010.

Tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP của Việt Nam giai đoạn 2006-2010


Nguồn: MOF

Thứ hai, dịch vụ nợ tăng nhanh trong khi dự trữ ngoại tệ giảm nhanh hơn hẳn

Dịch vụ nợ nước ngoài của Việt Nam trong năm 2010 là 1,67 tỷ USD, trong đó riêng tiền lãi và phí là hơn 616 triệu USD, tăng gần 30% so với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009. Dịch vụ nợ Chính phủ so với tổng ngân sách Nhà nước của Việt Nam năm 2009 là 5,1%, ngưỡng an toàn của WB đưa ra là dưới 35%.

Tuy nhiên, Dịch vụ nợ nước ngoài năm 2010 bằng tới 50% tổng đầu tư phát triển cùng năm ngân sách của Việt Nam. Một con số không hề nhỏ trong quy mô khiêm tốn của NSNN hiện nay.

Đặc biệt, theo cảnh bảo của Bộ Tài chính, dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, giảm mạnh so với con số 290% và 2.808% của các năm 2009 và 2008; trong khi mức khuyến nghị của Ngân hàng thế giới WB là trên 200%.

Việc mua vào thêm 4 tỷ USD trong những tháng đầu năm 2011 ít nhiều đã cải thiện tỷ lệ an toàn này của Việt Nam. Song, việc mua vào không phải là giải pháp bền vững xét dưới góc độ chống lạm phát tiền tệ, vì nó dễ trở thành nguồn xung lực làm tăng lạm phát triền tệ ở nước ta.

Thứ ba, điều kiện nợ ngày càng ngặt nghèo hơn

Bộ Tài chính cho biết, lãi suất vay nợ của Việt Nam đang có xu hướng tăng lên cả do Việt Nam đã bị giảm mức nhận ưu đãi vì gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, cũng như do ít nhiều giảm cả mức tín nhiệm quốc gia (theo một vài đánh giá cá biệt là từ BB+ xuống BB) vì những e ngại bất ổn của kinh tế vĩ mô và sự kiện Vinashin…

Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số có lãi suất thấp, trong tổng nợ cuối năm 2009 thì vay ODA chiếm tỷ trọng 74,67%, vay ưu đãi chiếm 5,41%, vay thương mại 19,92%...

Sang năm 2010, vay nợ với lãi suất thấp 1 - 2,99%/năm chiếm khoảng 65,5% tổng dư nợ. Tuy nhiên, khoản vay có lãi suất cao từ 6 - 10%/ năm trong năm 2010 cũng đã lên tới 1,89 tỷ USD, gấp hơn 2 lần năm 2009. Hiện các chủ nợ chính của Việt Nam vẫn là Nhật Bản, Pháp, ADB, WB... Các chủ nợ này đã nâng lượng nắm giữ trái phiếu Chính phủ Việt Nam lên hơn 2 tỷ USD trong năm 2010 (so với con số hơn 1 tỷ USD của năm 2009).

Tóm lại, dù tự tin và thận trọng, muốn hay không thì cũng phải rung chuông tự cảnh cảnh báo rằng mức nợ nước ngoài của Việt Nam đã tiếp cận giới hạn chịu đựng của nền kinh tế so với khả năng trả nợ, vì rõ rằng đã ở chấp chới dưới mức cảnh báo an toàn của WB như trên đã nêu; vấn đề càng nhậy cảm hơn trong bối cảnh khủng hoảng nợ công đang bao phủ toàn cầu và đe dọa nhấn chìm nền kinh tế thế giới vào vòng xoáy khủng hoảng tồi tệ mới vô tiền khoáng hậu…

Cần tỉnh táo thấy rõ sự thực trần trụi rằng, nếu khủng hoảng nợ công xẩy ra, Việt Nam sẽ phải “một mình vượt cạn”, khó trông cậy vào sự cứu trợ “giá rẻ “hay vô tư nào từ các chủ nợ, các khối kinh tế hay tổ chức tài chính khu vực và quốc tế như chuyện của EU hiện tại….

Đã chín muồi điều kiện và đòi hỏi bức xúc về sự ra đời và thực thi hiệu lực, hiệu quả trên thực tế Một Luật đầu tư công và Luật về Nợ nước ngoài, cũng như Luật về khai thác và bảo vệ tài nguyên-môi trường, bảo vệ người hiền tài và các lợi ích quốc gia khác của Việt Nam, để góp phần phát triển bền vững đất nước, bình ổn vững chắc đời sống kinh tế -xã hội và con cháu mai sau không phải chịu cảnh “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”…

TS.Nguyễn Minh Phong
Viện nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội

No comments:

Post a Comment